Chiều 19/3, Sở Y tế phối hợp với VNPT Hoà Bình tổ chức hội thảo giải pháp chuyển đổi số (CĐS) ngành Y tế tỉnh Hoà Bình năm 2025. Dự hội thảo có lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ, UBND các huyện, thành phố và các đơn vị trực thuộc ngành Y tế.
Toàn cảnh Hội thảo về giải pháp chuyển đổi số toàn diện cho ngành Y tế tỉnh.
Tại hội thảo, các đại biểu đã được triển khai Kế hoạch số 59/KH-UBND, ngày 7/3/2025 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP, ngày 9/1/2025 của Chính phủ và Chương trình hành động số 33-Ctr/TU, ngày 20/2/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia; Kết luận số 01-KL/BCĐ, ngày 13/3/2025 của Ban Chỉ đạo phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS tỉnh tại Hội nghị ngày 11/3/2025; Chỉ thị số 07/CT-TTg, ngày 14/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2025 và những năm tiếp theo…
Các đại biểu cũng nghe VNPT Hoà Bình trao đổi về giải pháp CĐS toàn diện cho ngành Y tế; chia sẻ kinh nghiệm triển khai bệnh án điện tử của Bệnh viện Đa khoa tỉnh; thảo luận về thực trạng và giải pháp CĐS tại một số đơn vị trực thuộc ngành Y tế.
Việc tổ chức hội thảo nhằm phổ biến, thảo luận để triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ Trung ương, địa phương giao cho ngành Y tế cần triển khai nhanh, khẩn trương trong thời gian tới, như: Công tác CĐS y tế; triển khai hồ sơ sức khoẻ điện tử cho người dân; thực hiện hệ thống khám, chữa bệnh từ xa và hệ thống hỗ trợ tư vấn sức khoẻ trực tuyến cho người dân; đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ, giải pháp CĐS toàn diện cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh; triển khai thực hiện bệnh án điện tử tại các bệnh viện, trung tâm y tế huyện, thành phố.
Niên vụ 2024 - 2025 có nhiều dấu ấn đáng nhớ cho ngành trồng trọt của tỉnh, nhất là với các loại quả có múi. Dù còn không ít thách thức, song với sự nỗ lực của ngành nông nghiệp, các địa phương, doanh nghiệp, đơn vị sản xuất và người nông dân đã giúp sản xuất, xuất khẩu có được gam màu sáng, đầy hứa hẹn.
Sản phẩm bưởi da xanh của huyện Tân Lạc được đóng gói, dán tem nhãn trước khi xuất khẩu sang thị trường EU.
Trải qua một năm có những thời điểm gặp bất lợi về thời tiết, nhưng nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã giúp các vườn cây ăn quả vẫn cho lứa quả căng mọng, đảm bảo chất lượng. Các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP được mở rộng, giúp nâng cao giá trị quả có múi trên thị trường. Tại huyện Lương Sơn, từ năm 2023 đến nay, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT), sự nỗ lực, tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của người trồng bưởi, nhờ vậy chất lượng quả thay đổi nhiều về độ ngọt, sản lượng, hình thức. Đồng chí Bùi Quốc Hoàn, Phó Chủ tịch UBND huyện Lương Sơn cho biết: Hiện có 3 vùng trồng bưởi trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm bưởi huyện Lương Sơn đã được cấp mã số vùng trồng (MSVT) nội địa và xuất khẩu; cấp mã cơ sở đóng gói (CSĐG) và chứng nhận VietGAP, GlobalGAP. Năm 2024, huyện rà soát những diện tích đủ điều kiện để tiếp tục xây dựng và phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm bưởi huyện Lương Sơn. Đồng thời, sử dụng hiệu ứng từ hoạt động xuất khẩu để đẩy mạnh tiêu thụ bưởi tại thị trường trong nước.
Tính đến tháng 2/2025, trên toàn tỉnh đã thực hiện kiểm tra, đánh giá và được nước nhập khẩu chấp thuận phê duyệt 48 MSVT cây có múi xuất khẩu với diện tích 332,48ha tại các huyện: Lương Sơn, Yên Thủy, Tân Lạc, Kim Bôi và thành phố Hòa Bình. Các thị trường đã cấp được cấp mã số gồm: Hoa Kỳ, EU, Newzaland, Hàn Quốc.
Để có kết quả trên, ngay từ đầu năm 2024, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) đã xây dựng, ban hành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật canh tác bưởi theo tiêu chuẩn xuất khẩu. Những kỹ thuật sản xuất, phòng trừ dịch hại áp dụng cho từng giai đoạn sinh trưởng được phổ biến đến các doanh nghiệp, HTX, THT và nhà vườn tại các vùng sản xuất bưởi phục vụ xuất khẩu trên địa bàn để triển khai áp dụng đồng bộ. Hoạt động tập huấn, tuyên truyền, phổ biến các quy định về cấp và quản lý MSVT, mã số CSĐG, kiểm dịch thực vật và quy định của nước nhập khẩu được đẩy mạnh.
Ngoài ra, Chi cục TT&BVTV thành lập các nhóm trên ứng dụng zalo liên kết các HTX, THT, nhà vườn sản xuất cùng doanh nghiệp thu mua sản phẩm. Trong các nhóm liên kết đều có cán bộ kỹ thuật được phân công địa bàn sát sao kiểm tra, hướng dẫn kịp thời các nhà vườn. Đẩy mạnh phối hợp với Phòng Nông nghiệp và Môi trường các huyện, thành phố thực hiện tốt công tác cấp, quản lý và giám sát các MSVT và mã số CSĐG cây có múi phục vụ xuất khẩu.
Với việc triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, niên vụ 2024 - 2025, tổng sản lượng quả có múi thu hoạch trong toàn tỉnh ước đạt 202.040 tấn; trong đó sản lượng cam đạt 93.961 tấn, sản lượng bưởi đạt 108.079 tấn. So với niên vụ 2023 - 2024, sản lượng cam bằng 91,54%, sản lượng bưởi bằng 118,28%. Liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm quả có múi trong niên vụ được chuyển dịch từ hình thức tiêu thụ không có nhãn mác, nguồn gốc sang hình thức tiêu thụ có nhãn hiệu, thương hiệu của cơ sở, HTX. Cụ thể, tiêu thụ qua hợp đồng giữa các công ty, HTX, trang trại với các doanh nghiệp, siêu thị chiếm khoảng 22% sản lượng; tiêu thụ qua các tiểu thương hợp tác với nhà vườn chiếm 50%; qua kênh bán lẻ trực tiếp từ các nhà vườn khoảng 25%... Thị trường tiêu thụ chủ yếu tập trung tại Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Trong lĩnh vực xuất khẩu, toàn tỉnh đã xuất khẩu 78 tấn quả có múi các loại sang thị trường Hoa Kỳ, EU, Anh quốc, Malaysia (bằng 125% so với niên vụ 2023 - 2024).
Đồng chí Nguyễn Hồng Yến, Chi cục Trưởng Chi cục TT&BVTV tỉnh cho biết: Niên vụ 2024 - 2025, chất lượng và mẫu mã sản phẩm các loại quả có múi được cải tiến và thay đổi rõ rệt. Nhờ đó ngoài mục tiêu xuất khẩu, sức tiêu thụ và giá bán tại thị trường trong nước cũng được cải thiện cao hơn nhiều lần so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Điển hình như sản phẩm bưởi Diễn tại vùng sản xuất Đại Đồng (xã Ngọc Lương, Yên Thủy), một số vùng trồng tham gia chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm bưởi tại huyện Lương Sơn và bưởi đỏ Tân Lạc có giá bán trung bình từ 9.000 - 14.000 đồng/quả. Đến tháng 2/2025 đã cơ bản tiêu thụ hết sản lượng cam, bưởi của tỉnh. Hiện còn một số diện tích cam Xã Đoài tiếp tục thu hoạch và diện tích cam V2 thu hoạch trong tháng 3, tháng 4.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn những khó khăn, hạn chế trong canh tác, thị trường tiêu thụ và đáp ứng các điều kiện xuất khẩu quả có múi. Do đó, ngành nông nghiệp đã đưa ra các giải pháp thực hiện để hoàn thành mục tiêu trong năm 2025 là phấn đấu sản lượng quả có múi đủ tiêu chuẩn và được xuất khẩu tối thiểu đạt 300 tấn. Duy trì 100% MSVT, cấp mới 10 mã số. Phấn đấu có CSĐG đủ điều kiện cấp mã số vào thị trường EU...
Nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, nhà khoa học, kỹ sư được giao chủ trì khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đặc biệt quan trọng sẽ được hưởng nhiều ưu đãi đặc biệt, bên cạnh các chính sách ưu đãi chung.
Bộ KH&CN đề xuất bổ sung các chính sách ưu đãi phù hợp với từng đối tượng nhân lực hoạt động KHCN&ĐMST
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý của Dự thảo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) soạn thảo và đang trình Bộ Tư pháp thẩm định.
Theo Bộ KH&CN, so với Luật KH&CN hiện hành, Dự thảo Luật KHCN&ĐMST đã mở rộng phạm vi nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này. Không chỉ giới hạn trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, dự thảo còn bổ sung: Nghiên cứu sinh, nghiên cứu viên sau tiến sĩ; cá nhân quản lý hoạt động KHCN&ĐMST tại các cơ quan quản lý nhà nước; cá nhân làm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong trong doanh nghiệp; cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy ứng dụng công nghệ độc lập hoặc trong các tổ chức khác.
Đặc biệt, dự thảo bổ sung các chính sách ưu đãi phù hợp với từng đối tượng nhân lực hoạt động KHCN&ĐMST như chính sách ưu đãi đối với nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư; người Việt Nam ở nước ngoài và nước ngoài hoạt động KH&CN ở Việt Nam trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển; nhà khoa học trẻ tài năng, kỹ sư trẻ tài năng...
Đáng chú ý, đối với các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, nhà khoa học, kỹ sư chủ trì các nhiệm vụ quan trọng, bên cạnh các ưu đãi chung, nhóm đối tượng này còn được hưởng nhiều ưu đãi đặc biệt như: Hưởng mức lương và phụ cấp ưu đãi đặc biệt theo thỏa thuận với cơ quan nhà nước giao nhiệm vụ; được bố trí nhà ở công vụ, phương tiện đi lại trong thời gian thực hiện nhiệm vụ được giao.
Được đề xuất điều động nhân lực KHCN&ĐMST, kinh phí thực hiện nhiệm vụ và các nguồn lực vật chất, tài chính để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ.
Được thuê, thỏa thuận chi phí thuê chuyên gia trong nước và quốc tế, thỏa thuận; tự quyết định mua sáng chế, thiết kế, tài liệu kỹ thuật, bí quyết công nghệ phục vụ nhiệm vụ trong phạm vi dự toán kinh phí được giao.
Tự quyết định và được hỗ trợ kinh phí tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực chuyên môn. Chủ động tổ chức thực hiện nhiệm vụ KHCN&ĐMST được giao.
Ngoài ra, cá nhân hoạt động KHCN&ĐMST là người Việt Nam ở nước ngoài hoặc chuyên gia nước ngoài trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển của Việt Nam sẽ được xem xét hưởng các chính sách ưu đãi về xuất nhập cảnh, cư trú và cấp giấy phép lao động.
Với những ưu đãi, chính sách đặc biệt này, Bộ KH&CN kỳ vọng thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống cũng như thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, kỹ sư, các "tổng công trình sư" trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về KHCN và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý khác trong dự thảo luật là việc bổ sung quy định cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trong tổ chức KH&CN công lập được tham gia thành lập, điều hành doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu do tổ chức KH&CN mà mình là thành viên tạo ra; định kỳ được cử sang làm việc tại các tổ chức nghiên cứu và phát triển, cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp và các tổ chức khác trong một thời gian nhất định để trao đổi học thuật, nâng cao năng lực, nắm bắt nhu cầu công nghệ.
Trong thời gian làm việc tại các tổ chức này vẫn được giữ nguyên chế độ lương, quy hoạch, bổ nhiệm, thi đua khen thưởng tại tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
"Đây là quy định có tính đột phá nhắm thúc đẩy liên kết giữa khu vực nghiên cứu với doanh nghiệp để giúp nâng cao trình độ của doanh nghiệp, gắn nghiên cứu với thực tiễn và thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu", Bộ KH&CN cho biết.
Dự thảo Luật KHCN&ĐMST đang được tiếp tục hoàn thiện trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua. Nếu được thông qua, những chính sách này sẽ góp phần thu hút, trọng dụng nhân tài, xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo...
Theo số liệu vừa được Cục Thống kê công bố, 2 tháng đầu năm 2025, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 6,5%); tính chung 2 tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng ở 58 địa phương.
Trong nhiều năm qua, nhóm hàng may mặc là một trong hai sản phẩm chủ đạo xuất khẩu của tỉnh Hòa Bình.
Trong đó, 10 địa phương có chỉ số công nghiệp tăng cao nhất cả nước, dẫn đầu là tỉnh Phú Thọ với mức tăng 47,3% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là tỉnh Trà Vinh với mức tăng 40,5%; tỉnh Bắc Kạn tăng 28,1%; tỉnh Bắc Giang tăng 26,3%; tỉnh Hoà Bình xếp thứ 5 với mức tăng 21,4%; tỉnh Thanh Hoá tăng 18,9%; Quảng Nam tăng 18,8%; Nam Định tăng 17,7%; Bến Tre tăng 17,3%; Kiên Giang tăng 17,2%.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Hoà Bình, trong tháng 2/2025, sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng là do ngành khai khoáng tăng 50,82%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 21,15%, sản xuất và phân phối điện tăng 66,61%.
Cũng theo Cục Thống kê, tỉnh Hòa Bình xếp thứ 2 sau tỉnh Tra Vinh về chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao nhất cả nước (Trà Vinh tăng 51,3%; Hoà Bình tăng 43,6%; Quảng Nam tăng 13,8%; Kiên Giang tăng 12,7%; Bến Tre tăng 9,1%). Theo đó, sản lượng điện sản xuất trong tháng ước đạt 552 triệu kWh, góp phần ổn định nguồn năng lượng phục vụ sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn.
Sáng 19/3/2025, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) tổ chức Hội thảo quốc tế “Xây dựng và Sử dụng Bản đồ Sáng chế”, nhấn mạnh vai trò quan trọng của công cụ này trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tối ưu hóa chiến lược nghiên cứu và phát triển.
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Hội thảo, nằm trong khuôn khổ Dự án "Nâng cao năng lực xử lý đơn đăng ký sáng chế" hợp tác giữa Cục SHTT Việt Nam và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), đã thu hút sự tham gia của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và đại diện các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và đổi mới sáng tạo.
Phát biểu khai mạc, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Lưu Hoàng Long nhấn mạnh tầm quan trọng của SHTT trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong bối cảnh đó, bản đồ sáng chế nổi lên như một công cụ then chốt, hỗ trợ phân tích xu hướng công nghệ và định hướng chiến lược cho các doanh nghiệp và nhà nghiên cứu. Theo Cục trưởng Cục SHTT, bản đồ sáng chế không chỉ giúp phát hiện các "khoảng trống" công nghệ, giảm thiểu xung đột bằng sáng chế, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách SHTT và tối ưu hóa chiến lược nghiên cứu và phát triển (R&D). Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đức cho thấy, công cụ này đã được ứng dụng rộng rãi trong quản lý tài sản trí tuệ, xây dựng chiến lược sản phẩm và thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ mũi nhọn. Cục trưởng Lưu Hoàng Long cho rằng, việc ứng dụng hiệu quả bản đồ sáng chế sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần tăng cường thu thập và phân tích dữ liệu sáng chế, nâng cao năng lực sử dụng bản đồ sáng chế trong các doanh nghiệp và viện nghiên cứu, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến.
Tại hội thảo, ông Ogawa Akira chuyên gia của Dự án JICA chia sẻ một số kinh nghiệm quý báu về xây dựng và sử dụng bản đồ sáng chế tại Nhật Bản. Theo đó, tại Nhật Bản, bản đồ sáng chế được sử dụng rộng rãi không chỉ trong các doanh nghiệp mà còn trong các cơ quan hoạch định chính sách nhằm xác định xu hướng công nghệ và định hướng đầu tư vào nghiên cứu phát triển. Ông Ogawa Akira nhấn mạnh, một trong những lợi ích quan trọng nhất của bản đồ sáng chế là giúp doanh nghiệp nắm bắt vị thế của mình trong ngành, từ đó xây dựng chiến lược phát triển phù hợp. Ông cũng chia sẻ chi tiết về các phương pháp xây dựng bản đồ sáng chế đã được triển khai thành công tại Nhật Bản, đồng thời khuyến nghị Việt Nam tập trung vào việc đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng các công cụ phân tích dữ liệu sáng chế phù hợp với đặc thù thị trường trong nước.
Hội thảo là một hoạt động quan trọng trong khuôn khổ hợp tác giữa Cục SHTT Việt Nam và JICA nhằm nâng cao năng lực xử lý đơn đăng ký sáng chế. Cục trưởng Lưu Hoàng Long đánh giá cao sự hỗ trợ của JICA trong việc tổ chức các hội thảo chuyên sâu, giúp Việt Nam tiếp cận các phương pháp luận hiện đại về xây dựng và sử dụng bản đồ sáng chế. Đồng thời đề xuất JICA tiếp tục tổ chức các hội thảo chuyên đề sâu hơn, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mới nổi, công nghệ xanh, đường sắt tốc độ cao và năng lượng hạt nhân, nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ Nhật Bản.
Tại Hội thảo, các đại biểu cũng bày tỏ sự tin tưởng những kinh nghiệm và kiến thức được chia sẻ sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tối ưu hóa khai thác tài sản trí tuệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số.