Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là "con đường sống còn"

Chân dung đồng chí Võ Văn Tần - tranh do gia đình thuê vẽ sau năm 1954.

I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN TẦN

Đồng chí Võ Văn Tần sinh tháng 8/1891 trong một gia đình nông dân có truyền thống yêu nước ở làng Đức Hòa (nằm ven sông Vàm Cỏ Đông), huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An) - Vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng.

Lúc nhỏ, đồng chí Võ Văn Tần vừa theo học chữ Nho, vừa học nghề bốc thuốc. Đến năm 23 tuổi, Đồng chí mở lớp dạy học tại làng và bốc thuốc chữa bệnh cho người dân nghèo. Năm 1917, Đồng chí lên Sài Gòn vừa để kiếm sống, vừa là điều kiện tìm hiểu thời cuộc.

Năm 1922, đồng chí Võ Văn Tần trở về quê và ra làm Biện làng. Đến năm 1923, do tham gia cùng nông dân đấu tranh chống chính quyền thực dân thu thuế sát sinh vô lý, Đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam.

Năm 1926, đồng chí Võ Văn Tần gia nhập Hội kín Nguyễn An Ninh (tức Thanh niên Cao vọng Đảng).

Tháng 8/1929, đồng chí Võ Văn Tần gia nhập tổ chức An Nam Cộng sản Đảng, trực tiếp vận động và thành lập chi bộ An Nam Cộng sản Đảng ở làng Đức Hòa, gồm bảy hội viên do Đồng chí làm Bí thư (chi bộ đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Chợ Lớn xưa, ngày nay thuộc tỉnh Long An).

Từ năm 1930 - 1931, đồng chí Võ Văn Tần trực tiếp tham gia và phụ trách các cuộc biểu tình ở Chợ Lớn, Gia Định đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập công nhân vô cớ.

Tháng 6/1931, đồng chí Võ Văn Tần được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn. Tháng 6/1932, Đồng chí đứng ra thành lập cơ quan Liên huyện ủy Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa và tổ chức viết báo “Cờ lãnh đạo” (sau này được nâng chuyển thành cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy Nam kỳ) để vận động, phục hồi cơ quan lãnh đạo của Đảng vừa bị phá vỡ để tổ chức đấu tranh. Cuối năm 1932, đồng chí Võ Văn Tần chuyển sang làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Định. Đề nghị Tỉnh ủy Gia Định ra tờ báo “Lao động” để tuyên truyền hướng dẫn giáo dục đảng viên và giác ngộ quyền lợi giai cấp cho quần chúng lao động.

Từ năm 1933 - 1934, đồng chí Võ Văn Tần vận động, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở các tỉnh miền Tây, chỉ đạo việc thành lập Tỉnh ủy Lâm thời Mỹ Tho.

Tháng 11/1935, Đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Xứ ủy Nam kỳ. Tháng 3/1937, đồng chí Võ Văn Tần được chỉ định giữ trách nhiệm Bí thư Xứ ủy Nam kỳ và bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương.

Tháng 3/1938 tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, Đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

Ngày 14/07/1940, đồng chí Võ Văn Tần bị địch bắt khi đang họp bàn ở ấp Tân Thới Trung (nay là xã Tân Xuân thuộc huyện Hóc Môn, Bà Điểm).

Ngày 28/8/1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Võ Văn Tần cùng các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến ra xử bắn công khai tại khu giếng nước (nay là bệnh viện) Hóc Môn. Trước lúc hi sinh, các đồng chí đều dũng cảm giật tung mảnh vải bịt mắt và hô vang khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”, kêu gọi đồng bào tiếp tục đấu tranh chống đế quốc, giành tự do độc lập.

Đài tưởng niệm đồng chí Võ Văn Tần tại Đức Hòa, Long An.

Đài tưởng niệm đồng chí Võ Văn Tần tại Đức Hòa, Long An.

II. NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN TẦN VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Đồng chí Võ Văn Tần luôn cống hiến cho vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc cho nhân dân

Đồng chí Võ Văn Tần sinh ra trên một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng. Lớn lên trong gia đình nông dân nghèo, cần cù lao động và hiếu học. Từ nhỏ đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đồng bào sống cơ cực, lầm than dưới ách quân xâm lược, Đồng chí đã sớm hình thành tình cảm yêu nước, thương dân, sớm giác ngộ lý tưởng cộng sản và đi theo con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng. Đồng chí Võ Văn Tần thấy rõ sự vất vả, cực nhọc của người làm thuê; sự bất công, áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến; cái nhục của người dân mất nước; thấy cần phải có sự thay đổi lớn của xã hội. Ý nghĩa về tìm đường cứu nước, cứu dân được hình thành và củng cố trong ý chí và hành động của người thanh niên yêu nước Võ Văn Tần từ rất sớm.

Năm 1923, do tham gia đấu tranh chống chính quyền thực dân thu thuế sát sinh vô lý cùng nông dân, đồng chí Võ Văn Tần bị thực dân Pháp bắt giam khép tội “cầm đầu các cuộc chống đối”, nhưng không có chứng cớ để khép án, thực dân buộc phải trả tự do. Sau khi được trả tự do, Đồng chí tham gia nhiều cuộc bàn luận về lịch sử, về chính trị thời cuộc, về phong trào Cần Vương, thuyết Tam dân của Tôn Dật Tiên và hoạt động của các đảng phái, tôn giáo đương thời.

Đến năm 1926, do chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng yêu nước của Nguyễn An Ninh, đồng chí Võ Văn Tần gia nhập và là hội viên cốt cán của hội kín Nguyễn An Ninh (tức Thanh niên Cao vọng Đảng). Với lòng nhiệt tình và niềm tin của tuổi trẻ, đồng chí Võ Văn Tần đã hòa mình vào phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh giành tự do của dân tộc - là bước tiến gần đến với chủ nghĩa cộng sản trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Đồng chí.

Cuối năm 1926, đồng chí Võ Văn Tần quyết định tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam kỳ, đánh dấu bước chuyển biến tất yếu từ lập trường yêu nước sang lập trường giai cấp vô sản. Đồng chí đã tích cực tuyên truyền, vận động, tìm chọn những người hăng hái tích cực trong nông dân lao động, nhất là thanh niên giáo dục lòng yêu nước và ý thức giai cấp; gây dựng, thành lập các tổ chức chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Đức Hòa, Mỹ Hạnh, Đức Lập, Hữu Thạnh và kết nạp được nhiều hội viên, về sau trở thành những đảng viên cộng sản kiên trung như: Nguyễn Văn Thỏ, Trần Văn Thẳng, Trần Văn Thủ, Dương Thị Biết, Lê Văn Mè, Huỳnh Văn Bằng, Huỳnh Văn Ngọ,…

Hưởng ứng lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, với vai trò là Bí thư chi bộ Đảng Cộng sản xã Đức Hòa, đồng chí Võ Văn Tần dẫn đầu cuộc biểu tình của nông dân Đức Hòa ngày 4/6/1930. Đây là cuộc biểu dương lực lượng lớn ở Nam kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng; là đỉnh cao của phong trào cách mạng ở Chợ Lớn, Tân An. Cuộc biểu tình đã giương cao cờ đỏ búa liềm và các biểu ngữ với nội dung: chống thuế nặng, chống đánh đập vô cớ, chống sách nhiễu dân,…

Tháng 6/1931, trong bối cảnh thực dân Pháp đàn áp quyết liệt các cơ sở Đảng, đồng chí Võ Văn Tần phải nhiều lần “thay hình đổi dạng” để hoạt động, liên lạc, chỉ đạo xây dựng các cơ sở Đảng, duy trì các cuộc đấu tranh của quần chúng, tìm các đồng chí để tái lập Xứ ủy. Bằng ý chí, bản lĩnh kiên cường, trung thành với lý tưởng, bất chấp mọi hy sinh gian khổ, đồng chí Võ Văn Tần đã kiên trì hoạt động từng bước gây dựng lại tổ chức cơ sở của Đảng, duy trì sự lãnh đạo liên tục của Đảng ở Gia Định - Chợ Lớn.

Trong hoạt động cách mạng, đồng chí Võ Văn Tần không ngừng tự giác trong học tập và rèn luyện, trau dồi nâng cao kiến thức lý luận, thực tiễn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Đồng chí Võ Văn Tần có tác phong làm việc khoa học, sâu sát, bám sát thực tiễn và phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng; luôn tin tưởng, lạc quan vào con đường cách mạng của Đảng. Đồng chí luôn nhiệt tình, năng nổ, hết lòng vì nhiệm vụ, được quần chúng rất tin yêu; kiên quyết, khẳng khái bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân, của đất nước; kiên định với lý tưởng cách mạng, sắt son niềm tin với Đảng, với Tổ quốc.

2. Đồng chí Võ Văn Tần - Người chiến sĩ cộng sản kiên cường, quả cảm, mẫu mực, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản

Cuối năm 1930 - đầu năm 1931, cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp đã làm tổn thất nghiêm trọng đến lớp đảng viên đầu tiên trong cả nước cũng như của Đảng bộ Chợ Lớn. Trong tình thế hết sức căng thẳng, khó khăn, chính quyền thực dân truy lùng ráo riết, nhưng với sự che chở của quần chúng, đồng chí Võ Văn Tần và các đảng viên vẫn kiên trì len lỏi hoạt động, bám quần chúng, tìm cách khôi phục cơ sở, chắp nối lại liên lạc, quyết không để phong trào bị tê liệt.

Tháng 6/1932, đồng chí Võ Văn Tần đứng ra thành lập cơ quan Liên huyện ủy Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa và tổ chức viết báo “Cờ lãnh đạo” (sau này được nâng chuyển thành cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy Nam kỳ) để vận động phục hồi cơ quan lãnh đạo của Đảng vừa bị phá vỡ. Vừa bí mật hoạt động, vừa sâu sát với quần chúng, đồng chí Võ Văn Tần đã khéo léo che mắt địch một mặt tiếp tục thúc đẩy phong trào cách mạng, mặt khác phục hồi các cơ sở của Đảng và tổ chức đấu tranh với kẻ thù.

Giữa năm 1933, đồng chí Võ Văn Tần đích thân liên lạc xuống Miền Tây, chỉ đạo việc thành lập Tỉnh ủy Lâm thời Mỹ Tho, đồng thời, với tư cách là cán bộ Xứ ủy, Đồng chí đề nghị Tỉnh ủy Gia Định ra tờ báo “Lao động” để tuyên truyền, giáo dục đảng viên và giác ngộ quyền lợi giai cấp cho quần chúng lao động. Từ năm 1933 đến năm 1934, đồng chí Võ Văn Tần dành nhiều công sức để liên lạc và tổ chức các hoạt động của Đảng giữa Liên tỉnh miền Đông và miền Tây, cũng như tham gia công việc xây dựng lại Xứ ủy Nam kỳ. Bằng năng lực và kinh nghiệm thực tiễn, đồng chí Võ Văn Tần đã góp phần quan trọng vào việc duy trì, khôi phục và phát triển cơ sở Đảng ở các địa phương nhất là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong thời kỳ cách mạng gặp cơn thoái trào do sự đánh phá liên tiếp của địch. Đến tháng 5/1935 khi Xứ ủy Nam kỳ phục hồi, đồng chí được cử vào Ban Thường vụ của Xứ ủy Nam kỳ. 

Từ năm 1930 - 1935, đồng chí Võ Văn Tần cùng các đồng chí đảng viên trong Xứ ủy Nam kỳ đã khẳng định, minh chứng, tạo niềm tin cho quần chúng bằng những việc làm thiết thực đưa cách mạng Nam kỳ vượt qua thử thách khó khăn; khẳng định tinh thần, ý chí kiên cường, quả cảm, lòng trung thành vô hạn của những người cộng sản đối với quần chúng nhân dân.

Ngày 14/7/1940, đồng chí Võ Văn Tần bị địch bắt trong khi đang cùng một số đồng chí họp bàn tại nhà chị Nà ở ấp Tân Thới Trung (nay là xã Tân Xuân thuộc huyện Hóc Môn - Bà Điểm). 16 tháng bị thực dân Pháp giam cầm, mua chuộc, dụ dỗ và dùng cực hình tra tấn dã man làm cho Đồng chí chết đi sống lại; gông sắt, xiềng xích, đòn roi của địch không thể lay chuyển được ý chí bất khuất kiên cường và khí tiết cách mạng của đồng chí Võ Văn Tần. Vượt qua chế độ dã man của nhà tù thực dân, đồng chí Võ Văn Tần vẫn tiếp tục hoạt động, tuyên truyền và nhắc nhở các đồng chí của mình giữ vững khí tiết của người cộng sản. Không khuất phục được, thực dân Pháp đã đưa đồng chí Võ Văn Tần ra xử bắn ngày 28/8/1941. Quyết giữ trọn lời thề trung thành với Đảng, với cách mạng và nhân dân, đồng chí Võ Văn Tần bình thản đón nhận sự hy sinh vẻ vang. Trước khi ra pháp trường, đồng chí đã để lại di bút trên tường xà lim “Thà mình chết, không khi nào mình giết chết phong trào cách mạng…”

Cả cuộc đời Đồng chí luôn phấn đấu không mệt mỏi vì nước, vì dân, luôn kiên định niềm tin son sắt vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, không ngừng trau dồi bản chất cách mạng của người cộng sản, phát huy hết trí tuệ sáng tạo, gắn bó máu thịt với nhân dân, tận trung với nước, với Đảng, thủy chung với đồng chí, đồng bào. Đồng chí Võ Văn Tần là một tấm gương cao đẹp về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, về ý chí và tinh thần cách mạng của một chiến sĩ cộng sản kiên cường, quả cảm, sống giản dị khiêm nhường và tình cảm sâu sắc đối với đồng chí, đồng bào. Đồng chí Võ Văn Tần là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về lý tưởng sống để thế hệ trẻ học tập và noi theo.

3. Đồng chí Võ Văn Tần - Nhà lãnh đạo xuất sắc, Bí thư xứ ủy kiên trung, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng

Trên mọi cương vị công tác từ Bí thư Chi bộ, Bí thư Quận ủy, Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Xứ ủy, Ủy viên Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Tần đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có những cống hiến sắc bén về tư duy và những định hướng lớn cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, của dân tộc.

- Sau khi lập ra chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Đức Hòa (vào đầu tháng 3/1930). Đồng chí Võ Văn Tần được tín nhiệm cử làm Bí thư Quận ủy Đức Hòa. Là Bí thư Quận ủy, đồng chí Võ Văn Tần luôn năng động, nhiệt huyết, sáng tạo; trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy các cuộc đấu tranh, biểu tình lớn của nông dân Đức Hòa; đứng ra bênh vực nông dân, chống lại sự vô lý, bất công của kẻ thù; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, tránh những trò lôi kéo lừa bịp của địch; tích cực tuyên truyền phát triển đảng viên, mở rộng tổ chức cơ sở của Đảng; thúc đẩy phong trào cách mạng, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân trong vùng;… Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Võ Văn Tần cùng các đồng chí đảng viên Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng của nhân dân Đức Hòa và nhân dân trong vùng phát triển mạnh mẽ; lòng tin của nhân dân với Đảng được củng cố, tăng cường khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với cách mạng giải phóng dân tộc.

- Tháng 6/1931, đồng chí Võ Văn Tần được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn. Trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Đồng chí có nhiều công hiến lớn trong việc xây dựng và khôi phục lại các tổ chức của Đảng từ cơ sở đến cấp tỉnh ở Chợ Lớn, Gia Định, góp phần duy trì sự lãnh đạo liên tục của Đảng và khôi phục phong trào cách mạng trong thời kỳ địch khủng bố trắng. Thực hiện chủ trương Hội nghị Trung ương tháng 7/1936, đồng chí Võ Văn Tần được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Định. Đồng chí đã trực tiếp, thường xuyên chỉ đạo công tác vận động quần chúng tham gia cuộc vận động dân chủ ở Nam Kỳ. Đến tháng 9/1936, hàng chục ủy ban hành động được thành lập trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lợn và tỉnh Gia Định ở các nhà máy, công xưởng, đồn điền,… với đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia từ học sinh, sinh viên đến thợ thủ công, nông dân, công nhân; từ khu phố đến nông thôn.

- Trên cương vị Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ rồi đảm nhận chức vụ Bí thư Xứ ủy, đồng chí Võ Văn Tần trực tiếp chỉ đạo phong trào Đông Dương Đại hội; thống nhất tư tưởng và hành động của các nhóm cộng sản ở Nam kỳ trong cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Nam kỳ. Đồng chí Võ Văn Tần cùng với các đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Nghị,… thường xuyên, trực tiếp chỉ đạo việc gây dựng và phát triển phong trào cách mạng; mở các lớp tập huấn chính trị cho cán bộ Đảng và đoàn thể tại Bà Điểm; trực tiếp đi các tỉnh miền Đông, miền Tây xây dựng tổ chức, uốn nắn lệch lạc, chỉ đạo công tác đảng ở địa phương; thành lập bốn liên tỉnh bộ và khu bộ Sài Gòn - Chợ Lớn; thành lập các hội quần chúng ở cả nông dân và công nhân dưới nhiều hình thức phong phú, phù hợp với đấu tranh công khai và bán công khai; tổ chức lại nội bộ các nhóm quần chúng, ban đại biểu công nhân; thống nhất các nhóm theo chủ nghĩa Xtalin và đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng. Những hoạt động khẩn trương và tích cực của đồng chí Võ Văn Tần và Xứ ủy Nam kỳ đã củng cố và phát triển cơ sở Đảng rộng khắp trong công nhân và nông dân, cả nông thôn và thành thị; hướng dẫn quần chúng vào việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở khắp Nam kỳ.

- Trên cương vị là Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Tần đã góp phần chỉ đạo thành công hoạt động của Đảng trong cao trào cách mạng 1936 - 1939 ở Nam kỳ; hoàn thành công tác chuẩn bị cơ sở, bảo đảm an toàn về mặt tổ chức của Đảng; có nhiều đóng góp tích cực về mặt định hướng chiến lược và quan điểm lý luận cho thành công Hội nghị Trung ương IV (25/8 - 4/9/1937), Hội nghị Trung ương V (29 - 30/3/1938), Hội nghị Trung ương VI (6 - 8/11/1939).

Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần thứ VI của Đảng quyết định những chiến lược quan trọng của cách mạng dân tộc là: thay đổi sách lược, hướng phong trào đấu tranh vào những yêu sách; tuyên truyền, tổ chức, xây dựng uy tín và ảnh hưởng của Đảng; vạch rõ tội ác của chủ nghĩa đế quốc; khẩn trương thành lập các hội bí mật; huấn luyện quần chúng; liên hiệp với các đảng phái khác; có thái độ kiên quyết với bọn phản động, chống, phá Đảng; đấu tranh và chuẩn bị đón thời cơ giải phóng dân tộc, với mục tiêu trước mắt là “giành được độc lập hoàn toàn cho Đông Dương và chấm dứt chiến tranh đế quốc”. Đồng chí Võ Văn Tần đã chỉ đạo Xứ ủy Nam kỳ chuyển cán bộ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn; thành lập nhiều tổ chức Nông hội, Công hội, Thanh niên phản đế, các đội tự vệ và du kích phát triển nhanh chóng trong toàn xứ.

Suốt những năm tháng hoạt động cách mạng, dù ở đâu, đến đâu hay trên cương vị công tác nào, đồng chí Võ Văn Tần đều nhận được những tình cảm trân trọng, quý mến, sự giúp đỡ vô tư, chí tình của đồng chí, đồng bào. Với tác phong gương mẫu, gần gũi; luôn nhạy bén, nắm bắt cốt lõi của vấn đề; có lối sống giản dị, tôn trọng mọi người, là tấm gương mẫu mực, Đồng chí đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng mọi người; hiến dâng cả đời cho cách mạng, cho độc lập tự do của dân tộc. Đồng chí luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí; luôn quan tâm giáo dục, giúp đỡ cán bộ, đảng viên; luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở mọi người đoàn kết là tiêu chuẩn hàng đầu và đả phá tư tưởng địa phương chủ nghĩa, cá nhân địa vị, tham ô, hủ hóa. Trong cuộc sống cũng như trong công việc, Đồng chí luôn giải thích cặn kẽ mặt đúng, mặt sai để rút kinh nghiệm, căn dặn cán bộ phải luôn cảnh giác, phải tự rèn luyện cho mình đạo đức cách mạng, vì dân, vì nước.

*

*        *

Trong lịch sử đấu tranh cách mạng oanh liệt và vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Nam bộ, đồng chí Võ Văn Tần thuộc thế hệ chiến sĩ cách mạng tiền bối, lớp đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. 50 tuổi đời, hơn 15 năm hoạt động cách mạng liên tục và sôi nổi, Đồng chí đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Đồng chí tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta và thế hệ trẻ Việt Nam một tấm gương sáng của người chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời vì dân, vì nước. Với phương pháp, nguyên tắc và kinh nghiệm hoạt động bí mật; linh hoạt, sáng tạo và sâu sát với quần chúng; sự hiểu biết thực tiễn sâu sắc, tư duy sắc sảo và kiên định, đồng chí Võ Văn Tần đã gợi mở cho Đảng hình thành lên các hình thức tổ chức và hoạt động thích hợp trong quá trình lãnh đạo phong trào quần chúng rộng lớn chuẩn bị tới cao trào cách mạng 1939 - 1945.

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG

Ảnh minh họa

“CHÁY” GIÁO ÁN

Xét về lý thuyết, việc phân bổ thời gian giữa các ý, các nội dung của bài tuyên truyền cần có sự hợp lý, khoa học và logic, tạo nên tổng thể cân đối. Việc “cháy” giáo án, cháy “đề cương” xảy ra thường do việc báo cáo viên quá say sưa tập trung vào một phần nào đó, mà quên đi tính cân xứng tương đối giữa các nội dung.

Tất nhiên, cũng có thể báo cáo viên tập trung vào một, hai phần chính, lướt qua ở những phần còn lại, nhưng việc “cháy” giáo án, đề cương bài nói tới mức “đầu voi đuôi chuột”, thậm chí phần đuôi gần như chỉ còn là những đề mục, không phân tích, thiếu thông tin minh chứng… dẫn tới sự thiếu hoàn chỉnh của nội dung tuyên truyền, gây khó khăn cho đối tượng tiếp nhận thông tin.

Không loại trừ việc “cháy” giáo án xuất phát chính từ đòi hỏi của người nghe. Có những trường hợp, trong quá trình tuyên truyền, quán triệt, các học viên đề nghị báo cáo viên nói rõ, phân tích rõ hơn phần hoặc nội dung nào đó, dẫn tới, các phần nội dung sau bị cắt bớt cho kịp thời gian. Việc cắt bớt này “khéo léo” hay “vụng về” phụ thuộc vào bản lĩnh, cách xử lý của báo cáo viên, tuyên truyền viên.

KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI TƯỢNG TIẾP NHẬN THÔNG TIN

Việc phân biệt các đối tượng tiếp nhận thông tin để lựa chọn hình thức thông tin, phương thức thông tin, nội dung thông tin là một trong những yêu cầu quan trọng của báo cáo viên, tuyên truyền viên. Cách nói chuyện với tầng lớp thanh niên chắc chắn sẽ khác với đối tượng người cao tuổi; giữa đội ngũ lãnh đạo cấp xã sẽ khác với đội ngũ lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước… Tuy nhiên, thực tế, không ít báo cáo viên chưa có sự phân biệt rành rọt, chưa lựa chọn được thông tin phù hợp, nội dung cần quan tâm, phương thức chuyển tải thích hợp khi tiếp cận và tuyên truyền cho các đối tượng khác nhau.

Chuyện “dở khóc, dở cười” sẽ xảy ra  khi mang những ý tưởng hàn lâm, ngôn ngữ khoa học quá chuyên biệt tới quán triệt cho những cán bộ thôn, xã; hay đưa những kiến thức ở dạng “vỡ lòng” tới phổ biến cho đội ngũ lãnh đạo cơ quan nhà nước.

THIẾU TƯƠNG TÁC

Thiếu giao lưu, tương tác, trao đổi giữa người tuyên truyền và người nghe là một trong những nhược điểm thường mắc trong quá trình tuyên truyền miệng. Một phần do sự hạn chế về thời gian, dẫn tới, nói hết nội dung là hết giờ, báo cáo viên không thể xoay xở, dành dụm được chút nào, hoặc nếu có chỉ là tầm 10, 15 phút cuối, cũng không đủ để trao đổi, đối thoại, giải đáp thắc mắc.

Chưa kể, không ít báo cáo viên còn chưa có kinh nghiệm, ngại trao đổi, sợ bị đặt câu hỏi khó, nên sẽ càng tiết giảm phần thời gian trống để tương tác người nghe. Thiếu tương tác tạo nên những buổi tuyên truyền có tính độc thoại, kém hấp dẫn và sôi nổi, giảm hiệu quả tuyên truyền, cũng như không tháo gỡ được những khó khăn giúp cho học viên trong quá trình tiếp thu nội dung tuyên truyền.

QUÁ PHỤ THUỘC CÔNG NGHỆ

Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn báo cáo viên, tuyên truyền viên đều tận dụng ưu thế công nghệ thông tin để phục vụ bài nói của mình. Chỉ với laptop, thông qua hệ thống máy chiếu, bài giảng được trình bày slide, với text cùng hình ảnh, clip đã thực sự tạo ra sự sinh động, phong phú và dễ tiếp thu hơn rất nhiều đối với người nghe.

Tuy nhiên, nếu không biết tiết chế, gia giảm, người trình bày chỉ “chăm chăm” kích chuột, trình chiếu và người nghe chỉ mải miết xem, hưởng thụ như xem phim, thì sự lắng đọng, sự tiếp nhận thông tin sẽ chỉ dừng ở mức độ tầm trung. Chưa kể nhiều báo cáo viên chưa có kinh nghiệm làm slide, quá câu nệ hình thức, nên tăng các gam màu xanh đỏ, các khối hình vuông tròn, “cao hứng” lại cho slide lúc chạy nhanh, khi chạy chậm làm chóng mặt người tiếp nhận phía dưới.

Cũng có trường hợp dở khóc dở cười, máy tính hoặc máy chiếu trục trặc, buộc phải trao đổi “chay”. Người nói thì lúng túng, bất ngờ vào thế khó, vì vốn phụ thuộc công nghệ, bài chuẩn bị slide lại thường chỉ có ý chính, phụ thuộc video, ảnh minh họa, nên lúc trình bày sẽ bị hụt hẫng, “giảm nhiệt”.

“PHỤ DÀI, CHÍNH NGẮN”

Có báo cáo viên bào chữa lỗi này, rằng, trước khi đi giảng, bên mời thường nói nhỏ: Anh nói cho chúng em vài câu chuyện ngoài lề, cơ mật một chút, vui vẻ một chút, cho anh em đỡ mệt khi nghe truyền đạt. “Được lời như cởi tấm lòng”, người nói khi trình bày sẽ tiết giảm phần chính, đan xen phần phụ. Mà nội dung đan xen lại hơi dày. Người ngồi phía dưới lúc nghe vài câu chuyện vui, ngoài lề được báo cáo viên “chia sẻ riêng, phạm vi nhỏ” cũng thích, nhưng rốt cục tới cuối buổi, những câu chuyện vốn là phần phụ lại chiếm dung lượng khá nhiều trong khi phần chính lại thu nhỏ tối đa. Hiệu quả tuyên truyền vì vậy cũng giảm đi không ít…

DIỄN NGÔN CHƯA HẤP DẪN

Một trong những yêu cầu cần thiết của báo cáo viên, tuyên truyền viên là phải có kỹ năng tuyên truyền để tăng tính hấp dẫn, thuyết phục và lôi cuốn đối với người nghe. Tuy nhiên, không phải bất kỳ báo cáo viên, tuyên truyền viên nào cũng có được kỹ năng này. Giọng nói đều đều, không lên trầm, xuống bổng; khuôn mặt thiếu biểu cảm; ngôn từ khô khan; khả năng thuyết trình chưa tốt… ít nhiều chi phối và làm giảm hiệu quả tuyên truyền. Không ít địa phương phản ánh, đề nghị các hội nghị báo cáo viên của tỉnh cần có báo cáo viên Trung ương về trực tiếp quán triệt, trao đổi. Một phần nguyên nhân cũng là kỹ năng của báo cáo viên địa phương chưa tốt, chưa lôi cuốn và thuyết phục với người nghe.

KHOE THÀNH TÍCH

“Lỗi” này khá cá biệt, nhưng lại thường tập trung vào một số báo cáo cáo viên, tuyên truyền viên lâu năm, được đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người. Người nghe bên cạnh việc tiếp nhận thông tin tuyên truyền, sẽ được nghe “trải lòng” về chuyến đi nước A, nước B, việc dự hội nghị này, hội nghị khác, rồi những chuyện “bếp núc” phía sau; cá biệt còn được nghe kể về “lý lịch” thành tích của báo cáo viên.

Oái oăm là những câu chuyện đôi khi chệch quỹ đạo nội dung bài giảng, chỉ đơn thuần để kể cho vui mà thôi. Những “hương vị” này nếu chỉ là chút xíu thì người nghe còn cảm thấy chấp nhận được, nhưng nếu quá đà, thì những buổi thuyết giảng xen lẫn khoe thành tích cá nhân thực sự sẽ gây ức chế cho người nghe.

****

Những “lỗi” cơ bản nêu trên là những điều mà nhiều người làm công tác tuyên truyền miệng “không ít thì nhiều” đã từng mắc phải, có những lỗi thuộc về kỹ năng (diễn ngôn thiếu hấp dẫn), có những lỗi thuộc về thói quen (quá phụ thuộc công nghệ), có lỗi lại thuộc về bản tính, nhược điểm cá nhân (khoe thành tích), có những lỗi lại cần tích lũy thêm kinh nghiệm để xử lý (cháy giáo án, không phân biệt đối tượng tiếp nhận thông tin, thiếu tương tác)…Với mỗi lỗi, lại tương ứng với cách sửa lỗi khác nhau. Lỗi nhược điểm cá nhân, thì cần nhận rõ, khắc phục. Lỗi kỹ năng thì không cách gì khác hơn là phải thường xuyên trau dồi, lắng nghe góp ý, phê bình, tích cực học tập những báo cáo viên kinh nghiệm.

Một báo cáo viên “già nghề” đã từng chia sẻ rằng, ông thường xuyên tự ghi âm bài nói của mình về để nghe lại, tự chỉnh sửa những lỗi nếu phát hiện ra. Nghe lại, đôi khi thấy tự xấu hổ vì mình nói “chưa tới”, mắc những lỗi cơ bản trong tuyên truyền. Không những thế, ông luôn tìm cách tiếp cận học viên để thăm dò việc tiếp thu thông tin, góp ý cách trình bày của mình.

Nhận ra lỗi, sửa lỗi cũng cốt để hướng tới những buổi tuyên truyền, trao đổi, quán triệt hiệu quả, hạn chế tối đa những giờ quán triệt, học tập “online, lướt mạng” cho hết thời gian…

Suy cho cùng, nhìn lại mình, tự sửa mình âu cũng là một cách để hoàn thiện mình của mỗi báo cáo viên, tuyên truyền viên./.

Song Minh - BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG

Hệ thống quản lý chất lượng ISO

ISO

2

TRACUU TTHC copy.jpg

QUY HOACH.png
DAUTHAU.png
du an dau tu.png
z2968527144711 d848110be1d8764d9f668eeee98dcb61

25dichvutjietyeu

z2615644676645 cb140a8573bb0f9f0f94b7488171d6d7

banner

 cpso
 lichcongtac
z5657615487203 52310839071a4be05fd539067e9a767b

congbaohb

991497
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tháng trước
Tất cả các ngày
139
302
649
857787
14640
6933
991497

Your IP: 216.73.216.218
2025-10-28 18:08
 
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG HỢP SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH HÒA BÌNH
Số giấy phép: 29/GP-SVHTTDL, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp ngày 16/5/2025
Chịu trách nhiệm chính: Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hòa Bình
Địa chỉ: Số 495, Đường Trần Hưng Đạo, Phường Phương Lâm, Thành phố Hòa Bình, Tỉnh Hòa Bình
Tel: 02183.898.678        - Email: sokhoahoccongnghe@hoabinh.gov.vn
Ghi rõ nguồn Trang thông tin điện tử tổng hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hòa Bình
(https://sokhoahoc.hoabinh.gov.vn) khi trích dẫn lại tin từ địa chỉ này.
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Template Settings

Color

For each color, the params below will be given default values
Blue Oranges Red

Body

Background Color
Text Color

Header

Background Color

Spotlight3

Background Color

Spotlight4

Background Color

Spotlight5

Background Color

Footer

Select menu
Google Font
Body Font-size
Body Font-family
Direction